Kim ngạch Xuất khẩu B2C của Việt Nam có thể đạt 13 tỷ USD. Đây là ước tính của Acess Partnership tại Báo cáo “Người tiêu dùng địa phương, Khách tiêu dùng toàn cầu năm 2022” mới công bố tháng 12 năm 2023. Theo công ty này, xuất khẩu B2C của Việt Nam năm 2022 đạt 3,5 tỷ USD. Với việc triển khai xuất khẩu như vài năm gần đây của các doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ thì kim ngạch xuất khẩu năm 2027 sẽ đạt 5,5 tỷ USD. Nhưng với kịch bản triển khai đồng bộ và mạnh mẽ của cả doanh nghiệp và các bên liên quan, con số này sẽ là 13 tỷ USD vào năm 2027.
Theo Báo cáo này, xuất khẩu từ doanh nghiệp tới người tiêu dùng (Business-to-consumer, B2C) qua thương mại điện tử tại Việt Nam hiện nay đạt giá trị 80,7 nghìn tỷ đồng (3,5 tỷ USD). Phân tích của chúng tôi cho thấy, dựa trên các xu hướng xuất khẩu gần đây và tốc độ hiện tại mà các doanh nghiệp áp dụng thương mại điện tử, doanh thu xuất khẩu qua thương mại điện tử ở Việt Nam có thể tăng lên 124,2 nghìn tỷ đồng (5,5 tỷ USD) vào năm 2027 với tốc độ tăng trưởng gộp hàng năm (CAGR) là 9% (tức là kịch bản “Kinh doanh theo Thông lệ” hay còn gọi là BAU-Business as Usual).
Tuy nhiên, nếu các MSME đẩy nhanh tốc độ áp dụng thương mại điện tử để xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ của mình, thì Việt Nam có thể thấy doanh thu xuất khẩu qua thương mại điện tử tăng lên 296,3 nghìn tỷ đồng (13 tỷ USD) vào năm 2027 (tức là kịch bản “MSME Đảm trách”). Tỷ trọng doanh thu mà MSME kiếm được theo kịch bản này cũng có thể tăng lên 67% từ mức chỉ 24% như hiện nay.
Khảo sát của chúng tôi với 300 MSME của Việt Nam cho thấy 86% tin rằng họ sẽ không thể xuất khẩu nếu không có thương mại điện tử. Các MSME cũng đánh giá cao quy mô và khả năng tiếp cận mà các dịch vụ thương mại điện tử quốc tế có được, giúp tăng khả năng tiếp cận của họ với một nhóm lớn người tiêu dùng toàn cầu ở nhiều quốc gia khác nhau.
Bất chấp việc các cửa hàng truyền thống gần đây đã mở cửa trở lại do nới lỏng các hạn chế COVID-19, các MSME vẫn tin rằng nhu cầu mua sắm trực tuyến sẽ tiếp tục mang đến những cơ hội đáng kể trong hoạt động xuất khẩu của họ ra nước ngoài. Không có rào cản với việc sử dụng kênh thương mại điện tử để xuất khẩu, 95% MSME được khảo sát vẫn mong đợi mức tăng hàng năm ít nhất 10% đối với xuất khẩu B2C qua thương mại điện tử trong vòng 5 năm tới.
Hầu hết các MSME ở Việt Nam hiện đang xuất khẩu sang phần còn lại của Đông Nam Á và Trung Quốc và tiếp tục coi đây là hai quốc gia xuất khẩu lớn nhất của họ trong tương lai. Tuy nhiên, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Liên minh Châu Âu nổi trội hơn trong các ưu tiên của MSME trong 5 năm tới. Người tiêu dùng qua kênh thương mại điện tử ở các nước phương Tây trọng điểm cũng tiết lộ thông qua một cuộc khảo sát rằng có cơ hội cho các MSME Việt Nam phục vụ nhu cầu về hàng hóa thông qua thương mại điện tử, với cả tần suất mua hàng và chi tiêu trung bình đều tăng kể từ năm 2020. Hơn nữa, các MSME Việt Nam phải đối mặt với các rào cản tương đối thấp khi nói đến những sở thích của người tiêu dùng đối với hàng hóa nhập từ nước ngoài của người tiêu dùng Hoa Kỳ và Vương quốc Anh.
Tuy vậy, đối với khả năng sử dụng thương mại điện tử để xuất khẩu, các MSME Việt Nam đã xác định được một số rào cản. Cụ thể, chi phí là một vấn đề nổi bật, trong đó các MSME cho rằng chi phí cao trong hoạt động hậu cần xuyên biên giới, tiếp thị sản phẩm và nghiên cứu người tiêu dùng. Các MSME cũng đề cập rằng mặc dù họ hiện được hưởng lợi từ một số khoản trợ cấp cho xuất khẩu và thương mại điện tử để giúp giảm bớt một số chi phí này, nhưng họ vẫn muốn nhận được hỗ trợ thêm trong lĩnh vực này. Việt Nam có thể tham khảo một số đề án phát triển về hỗ trợ của chính phủ cho người bán từ các quốc gia khác. Các khu vực Thí điểm Toàn diện (Comprehensive Pilot Zone, CPZ) của Trung Quốc cho thương mại điện tử xuyên biên giới là một ví dụ tuyệt vời về cách chính phủ có thể giảm bớt các rào cản pháp lý đối với người bán. Các CPZ của Hàng Châu đã phát triển hai nền tảng, một nền tảng dịch vụ tích hợp trực tuyến và một nền tảng khu công nghiệp ngoại tuyến, cho phép trao đổi thông tin giữa các cơ quan chính phủ dọc theo chuỗi giá trị, bao gồm hải quan, cấp vốn và thuế. Các nền tảng này đã giảm thời gian cần thiết để làm thủ tục thông quan và đơn giản hóa quy trình khai báo xuất khẩu cho các MSME.
Các MSME của Việt Nam cũng đã xác định một số rào cản pháp lý dẫn đến gánh nặng hành chính bổ sung, chẳng hạn như tuân thủ các quy định nhập khẩu và thuế hải quan khác nhau. Việt Nam đã ký kết một số hiệp định thương mại tự do nhằm tạo thuận lợi cho thương mại thông qua các phương tiện kỹ thuật số. Trong số này có “Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương”, có các điều khoản nhằm khuyến khích MSME tham gia vào hiệp định thương mại tự do cũng như các điều khoản cụ thể liên quan đến thương mại điện tử. Để tiếp tục giải quyết những vấn đề này, chính phủ nên tìm hiểu thêm các hiệp định tương tự với các nhóm khu vực khác và các đối tác thương mại song phương.
Tải Báo cáo: tại đây
Nguồn: Acess Partnership